Kinh Vu Lan Báo Hiếu là tên gọi tắt của Kinh Vu Lan, dạy về đạo hiếu thảo của Phật giáo. Tinh thần trong Kinh Vu Lan dạy chúng ta ý thức đ...
Kinh Vu Lan Báo Hiếu là tên gọi tắt của Kinh Vu Lan, dạy về đạo hiếu thảo của Phật giáo. Tinh thần trong Kinh Vu Lan dạy chúng ta ý thức độ lượng, bao dung, hướng đến và giúp đỡ người khác trong tinh thần vô vị lợi.
Giới thiệu Kinh Vu Lan
Phẩm Kinh Vu Lan gồm ba phần: Phần dẫn nhập, phần Chánh kinh
và phần Hồi hướng. Đây là nghi thức thuần Việt có nhiều bài sám nguyện,
thường đọc tụng suốt mùa Vu Lan tháng bảy như là tháng báo hiếu của người con
Phật.
Kinh Vu Lan có thể được đọc tụng hàng ngày để hồi hướng
công đức cho cha mẹ hiện tiền, đồng thời thắp sáng truyền thống hiếu đạo cho
con cháu. Ngoài ra, nghi thức này có thể được sử dụng trong những dịp chúc mừng
sinh nhật mẹ cha, chúc thọ cho ông bà và ngay cả các khóa lễ kỳ siêu cho
cha mẹ quá cố và cửu huyền thất tổ.
Vì tính đa dạng của nghi thức, người thọ trì đọc tụng
phải chọn đúng bài sám nguyện với nội dung thích hợp. Tụng nghi thức này
là để tiếp tục nuôi lớn các hạt giống biết ơn và đền ơn đối với hai đấng
sinh thành.
Niên đại xuất hiện của Kinh Vu Lan này không rõ, nhưng gần
nhất là vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Mặc dù tính chất nguyên thủy của
bài kinh còn và gắn liền với văn hóa Trung Quốc, nhưng giá trị giáo dục đạo
hiếu và đạo đức làm người trong hai kinh này này là điều nổi bật và không
thể phủ nhận. Kinh Vu Lan nhấn mạnh tính giáo dục và đạo đức con người.
Ý nghĩa Kinh Vu Lan
Thuật ngữ Vu Lan viết đủ là Vu Lan Bồn là từ dịch âm của
người Trung Quốc về chữ Phạn “Ullambana”. Một dịch âm khác nữa là Ô Lam Ba Na,
tuy tương đối gần âm với chữ Phạn hơn nhưng chữ này lại không thông dụng
trong giới Phật giáo.
Theo quan niệm thông thường, “ullambana” được ngài Trí
Húc dịch nghĩa là “giải đảo huyền”, về sau được diễn dịch thành “giải
đảo huyền, cứu thống khổ”. Giải là động từ có ý nghĩa là cởi trói, hay
giải phóng ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là “ngược” hay “dốc đầu xuống
đất, chân chỏng lên trời”, nhằm ám chỉ cho hình thức nghiêm khắc và đau đớn
tột độ của hình phạt. Huyền là “treo”. Như vậy “giải đảo huyền” có nghĩa
là “tháo bỏ các cực hình treo ngược của nghiệp xấu” và “cứu thống khổ” là cởi
trói ách đau khổ cùng cực của chúng sanh trong các đường dữ.
Theo tinh thần của Kinh Vu Lan, cái khổ nguy khốn nhất của
chúng sinh là bị sinh vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, tháo gỡ cái cực hình
treo ngược là tháo gỡ cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục.
Nội dung Kinh Vu Lan
Nhân sự kiện Đức Phật đảnh lễ đống xương khô trong đó có
cha mẹ nhiều đời trong quá khứ của ngài, đức Phật đã giảng dạy về 10 đức ân của
hai đấng sanh thành như sau: 1) Gìn giữ con khi mang thai, 2) khổ đau trong
sinh nở, 3) lo lắng trăm bề đến lúc sinh, 4) nuốt đắng nhả ngọt, 5) nhường khô
nằm ướt, 6) bú mớm nuôi nấng, 7) tắm rửa săn sóc, 8) thương nhớ không nguôi,
9) quá vì con, thậm chí làm ác, 10) thương con trọn đời.
Để con cháu đền đáp công cha nghĩa mẹ, Đức Phật dạy phương
pháp báo hiếu về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Nếu đối với cha, công ơn
trời biển thuộc về phần nuôi nấng và giáo dục con cái thì đối với mẹ là cả
bầu trời tình thương, mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, cho đến lúc con cái
được trưởng thành và hạnh phúc trong đời.
Trong hành trình mang lại hạnh phúc cho con cái, đôi lúc
cha mẹ đã hy sinh hạnh phúc của bản thân. Có nhiều bậc cha mẹ trong kế sinh
nhai đầy lao khó đã phải bất đắc dĩ “tính sao có lợi thì làm khác, Chẳng màng
tội lỗi bị giam bị cầm”.
Hiểu được công ơn trời biển của hai đấng sinh thành, tất
cả những người làm con phải lo báo hiếu cù lao. Đạo đức của lòng hiếu thảo
theo kinh này khởi đi bằng đời sống đạo đức của bản thân, thấy được song thân
ân trọng, nỗ lực đền đáp bằng tất cả tấm lòng trong mọi tình huống, dù trong
lúc khốn đốn khó khăn, vật đổi sao dời, lòng hiếu kính của con cháu đối với
cha mẹ trước sau như một.
Vì tình thương và tấm lòng của cha mẹ dành cho con cái
là không bờ bến. Tất cả sự báo hiếu của con thảo cháu hiền chỉ đáp đền được
phần nào đó trong muôn một. Những kẻ bất hiếu là tự gieo bất hạnh cho bản
thân, và khó có cơ hội sống trong hạnh phúc thật sự. Do đó hiếu thảo là nhu
cầu không thể thiếu của hạnh phúc và là giá trị làm thăng hoa mọi giá trị
trong cuộc đời.
Đạo hiếu thảo Điểm nổi bật và quan trọng nhất trong kinh Vu
Lan là đạo hiếu như một phương pháp tu tập. Nếu trong kinh Vu-lan, đương sự
báo hiếu là ngài Mục-kiền-liên, vị đệ tử lỗi lạc với thần thông số một,
thì trong kinh Báo Ân, sự báo hiếu được khởi đi bằng sự kiện đức Phật đảnh
lễ đống xương khô, trong đó có cửu huyền thất tổ của ngài. Giá trị giáo dục
ngụ ý của hai kinh này rất cao: Thánh nhân và Phật còn hiếu thảo với cha mẹ
như vậy thì huống hồ là người phàm phu tục tử chúng ta mà không chịu sớm
lo báo đáp. Điều đó còn nói lên rằng đạo hiếu là nền tảng của đạo làm người
và đạo thánh nhân. Thiếu hiếu thảo, tính cách đạo đức của con người đã bị
phá vỡ và do đó không thể trở thành các bậc hiền thánh để đời ca tụng và học
hỏi theo được.
Đạo hiếu thảo là đạo làm người và đạo làm thánh. Đây
là bước khởi đầu của mọi đạo lý trên đời. Nếu tính cách thiêng liêng của đạo
hiếu bị phá vỡ thì tính cách đạo đức của một cá nhân cũng không thành tựu được.
Nghĩa là người bất hiếu không phải là người hiền lương và đạo đức, và do
đó không phải là con người đúng với nghĩa là một động vật tiến hóa về ý thức
và đạo đức.
Cách thức mà ngài Mục-kiền-liên cứu thoát mẹ ngài khỏi
cảnh quỷ đói là nhờ vào oai đức giáo hóa qua hình thức chú nguyện của cộng
đồng tỳ-kheo thanh tịnh và có đủ giới đức. Đây là điểm quan trọng trong Kinh
Vu Lan. Oai đức của cộng đồng được xem như biển cả bao la (chúng đức như
hải), có thể giúp chúng ta hoàn tất các Phật sự một cách mỹ mãn: Ở đây là
giáo hóa và cứu độ nạn nhân trong thế giới ngạ quỷ. Nội dung của bài kinh
khuyến khích và dạy bảo chúng ta nên sống nương tựa vào đạo đức cộng đồng
trong việc tu tập và làm Phật sự. Do đó đạo đức cộng đồng được xem là giải
pháp của mọi vấn đề đạo đức và luân lý của thời đại.
Trong công cuộc giáo hóa chúng sinh, chúng ta cần đến một sức
mạnh đạo đức tổng hợp và mang tính cộng đồng như vậy. Chính nhờ vào đạo đức
cộng đồng của các vị thánh tăng và cao tăng nghiêm trì giới luật, mẹ ngài Mục-kiền-liên
đã được “cảm hóa” rồi đi đến “tự chuyển hóa” và nhờ đó bà được giải thoát.
Bà được thoát cảnh ngạ quỷ không chỉ đơn thuần do sức chú
nguyện của mười phương tăng. Thật chất là do sức oai thần đạo đức của mười
phương tăng đã cảm hóa được bà, giúp bà tự chuyển hóa các nghiệp xấu ác của
ngạ quỷ, phát huy tối đa nghiệp thiện, tái sanh về cảnh giới tốt. Đây là một
quy trình vừa tâm lý vừa đạo đức trên nền tảng nỗ lực của tự tâm.
Nói cách khác nếu bản thân mẹ của ngài Mục-kiền-liên không
tự nỗ lực để chuyển hóa nghiệp xấu ác của chính bà thì oai đức của chư tăng
cũng vô phương cứu chữa. Đó là mấu chốt của vấn đề cứu độ trong Kinh Vu Lan.
Một vấn đề cần lưu tâm về Kinh Vu Lan là vấn đề phương pháp
báo hiếu qua việc cúng dường trai tăng trong ngày rằm tháng 7. Kinh văn chép
đó là ngày Phật hoan hỷ và chư tăng thanh tịnh sau ba tháng chuyên ròng tu tập
thiền định và phát huy giới đức. Thực ra, không phải chỉ có ngày rằm tháng
7 Đức Phật mới hoan hỷ. Đức Phật luôn luôn hoan hỷ trong mọi thời gian. Nói
cách khác nơi nào và lúc nào, có những người con hiếu thảo, cung kính,
nuôi dưỡng cha mẹ đúng pháp, nơi đó có sự hoan hỷ của Phật, nơi đó có sự sống đạo
đức. Nơi nào con cái bất hiếu ngỗ nghịch với cha mẹ, nơi đó không có sự hoan
hỷ, mà chỉ có mặt của đau khổ và bất hạnh. Sở dĩ kinh văn nói đến rằm tháng 7
là ngày Phật hoan hỷ là nhằm nhấn mạnh vào hành vi hiếu thảo của các người
con trong ngày mang tính biểu tượng đạo hiếu và báo hiếu này.
Kế đến việc cúng dường chư tăng, kinh văn có nói “sắm đủ mọi
phẩm vật tươi tốt và thượng hạng”. Đây là một cách mô tả mang tính ẩn dụ
văn học. Cách mô tả của Kinh Vu Lan văn phản ánh một quan niệm rằng người
con hiếu thảo phải sẵn lòng vì cha mẹ không tiếc tiền của để báo đáp công ơn
sanh thành của cha mẹ. Sắm các thức ăn ngon và sang trọng phải được hiểu là
cách thể hiện lòng chí thành hay chân thành của người con đối với việc
chu lo cho cha mẹ, chứ không nhất thiết là các phẩm vật thượng hạng trong thực
tế. Một khi lòng đã chân thành rồi thì số lượng và khối lượng vật chất dùng
vào việc hiếu thảo không còn là vấn đề nữa.
Nói cách khác, khi có đủ lòng chân thành thì cúng cho Tam
bảo một nén hương, một bát nước, một cành hoa, một trái cây cũng là báo hiếu
cha mẹ được. Thế mới biết trong đạo Phật chữ tâm quan trọng đến thế. Tâm là
tiêu chí đánh giá thiện ác và là cái cân để đo lường các trị số đạo đức của
hành vi, trong báo hiếu nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Đạo Phật
trong ý nghĩa này được xem đạo dạy về tâm, huấn luyện về tâm và tu tập về
tâm.
Vậy đối tượng giáo dục của Kinh Vu Lan này là ai? Ngài Mục-kiền-liên?
Mẹ ngài Mục-kiền-liên? Hay chúng sinh nói chung? Câu trả lời ngắn gọn là
thông điệp của Kinh Vu Lan là dành cho
tất cả loài người, những người từng là con và do đó phải có trách nhiệm đền
đáp ân nghĩa sanh thành và nuôi nấng của cha và mẹ. Kinh Vu Lan còn hướng đến
những chúng sinh đang bị đau khổ, do bị nghiệp bất thiện gây ra trong đời sống
hiện tại cũng như trong quá khứ.
Do đó việc báo hiếu không chỉ dành cho hàng đệ tử tại
gia mà còn chung cho hàng xuất gia; việc cứu độ không chỉ dành cho người sống
mà còn cho người quá vãng. Với tinh thần cứu sanh độ tử, đạo Phật đã thật sự
đi vào ngõ ngách của cuộc sống. Độ người còn sống để giúp họ sống hạnh phúc ở
hiện tại và tương lai. Độ người đã chết để giúp họ sớm thoát khỏi cảnh
giới xấu xa và đau khổ. Nếu người hành trì đạo Phật muốn biến đạo Phật
thành đạo chỉ “độ người sống” mà không có “độ người chết” thì họ đã làm cho
đạo Phật trở nên không trọn vẹn.
Ngược lại, nếu biến đạo Phật thành đạo chỉ có độ người chết
mà không có độ người sống lại càng làm cho đạo Phật không còn là đạo Phật nữa.
Nói cách khác, đạo Phật quan tâm đến nhiều phương diện của đời sống, bao gồm sống
và chết. Các hình thức nghi lễ cúng kiến cho người chết mà không thuyết
pháp để độ người sống sẽ biến đạo Phật thành một “đạo ma chay”, điều mà đức
Phật đã từng lên án khi Ngài còn tại thế. Mong sao những người con Phật ý thức
được việc làm của mình, không biến đạo Phật từ một đạo vị nhân sinh sống động
thành một đạo vì người chết.
Nếu Kinh Vu Lan thông điệp hiếu kính cha mẹ thì mùa Vu
Lan là mùa biểu tượng của đạo hiếu trong đạo Phật. Đó là mùa gợi chúng ta
nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Mùa Vu Lan do đó trở thành
mùa báo hiếu. Lễ hội Vu Lan là lễ hội của hiếu thảo, thương kính cha mẹ.
Hiếu thảo cha mẹ thì chúng ta phải biết kính trọng cha mẹ, vâng lời cha mẹ
dạy, phụng dưỡng nuôi nấng cha mẹ, sớm thăm tối viếng khi cha mẹ đau ốm,
hướng dẫn cha mẹ quy y Tam bảo, trở thành người Phật tử chân chánh, nếu cha
mẹ chưa trở về với chánh pháp. Nói chung, người Phật tử phải biết đền ơn cha
mẹ hiện đời cũng như cha mẹ trong đời quá khứ. Đạo lý của Vu Lan như vậy là đạo
lý vì con người, vì sự an lạc của tất cả chúng sinh.
Từ phương diện xã hội, lễ Vu Lan Báo Hiếu còn là dịp tốt
để người Phật tử phát tâm cúng dường Tam bảo, làm việc nhân từ, phóng sanh cứu
vật … Tinh thần trong Kinh Vu Lan dạy chúng ta ý thức độ lượng, bao dung,
hướng đến và giúp đỡ người khác trong tinh thần vô vị lợi. Ngoài ra, Vu Lan
còn là cơ hội tốt cho chúng ta phát tâm bồ đề hướng đến các chúng sanh ngạ quỷ
đang đau khổ, làm các việc công đức để hồi hướng cho họ. Một lễ hội có nhiều
giá trị đạo đức và luân lý như vậy cần được phát huy để cho sự sống của con
người hôm nay và mai sau thật sự an lạc trong đạo lý và tình người.
Cách tụng niệm Kinh Vu Lan
Từng câu chữ trong Kinh Vu Lan có nghĩa lý rất thâm sâu và
vi diệu, có câu chữ mang chất ẩn dụ cao, đọc qua một hai lần không thể nào
chúng ta hiểu rõ được. Do đó, khi tụng kinh, chúng ta phải hết lòng thành kính.
Phải có tâm tha thiết trân quý từng câu chữ.
Trước khi tụng Kinh Vu Lan, ta nên rửa tay, súc miệng cho sạch
sẽ và y phục phải trang nghiêm. Khi ngồi, đứng phải giữ thân cho ngay thẳng.
Lúc lạy hay quỳ phải giữ thân đoan nghiêm. Miệng tụng đọc âm thanh vừa đủ nghe.
Chỉ có con đường tự chuyển hóa tâm thức chính mình, qua sự
hướng đạo của Tam bảo, hành vi và lời nói của chúng ta sẽ trở nên thiện.
Đây là con đường cứu độ bản thân và tha nhân có hiệu quả nhất. Mọi hình
thức trông chờ vào tha lực của người khác chỉ là phản ánh của một nhận thức
sai lầm về quy luật nhân quả “ai làm lấy chịu, ai tu nấy chứng” của Đức Phật
và tệ hơn nữa là một sự đổ vỡ của đời sống hướng thượng của bản thân. Kinh
Vu Lan và lễ hội báo hiếu đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống mãi trong đạo đức
chữ hiếu và đạo lý làm người, của tất cả con người trên hành tinh.
Minh Chính (TH)
Nguồn: phatgiao.org.vn

COMMENTS